Thiết kế và chế tạo I-152_(tàu_ngầm_Nhật)

Bối cảnh

Sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Bộ tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật Bản bắt đầu cân nhắc chiến tranh tàu ngầm như một thành phần chiến lược của hạm đội. Trước chiến tranh, Hải quân Đế quốc Nhật Bản xem tàu ngầm chỉ hữu ích cho việc phòng thủ duyên hải tầm ngắn.[1] Tuy nhiên dựa trên thành công của Hải quân Đế quốc Đức khi bố trí tàu ngầm tuần dương tầm xa để đánh phá tàu buôn trong Thế Chiến I, các nhà chiến lược Nhật Bản nhận ra khả năng sử dụng tàu ngầm để trinh sát tầm xa, cũng như trong cuộc chiến tranh tiêu hao chống lại một hạm đội đối phương tiếp cận Nhật Bản.[1] Cho dù một tàu ngầm lớn có tầm hoạt động xa đã được chấp thuận trong tài khóa 1918 trong Chương trình Hạm đội 8-6 dưới tên gọi Đề án S22 (sau này là chiếc I-51), một chiếc nguyên mẫu thứ hai với thiết kế khác biệt (sẽ là I-52) được chấp thuận trong tài khóa 1919.

Thiết kế

Nguyên mẫu Kaidai đầu tiên, Đề án S22, dựa trên thiết kế mới nhất của Hải quân Hoàng gia Anhtàu ngầm Anh lớp K, và nó trở thành chiếc I-51 (Kaidai Kiểu I). Nguyên mẫu Kaidai thứ hai (Kaidai Kiểu II) được dựa trên lớp U-139 của Hải quân Đế quốc Đức,[2] và được đặt tên Đề án S25.

Với động cơ diesel Sulzer được cải tiến, I-52 có cấu trúc vỏ đơn và trang bị hai động cơ (thay vì vỏ kép và 4 động cơ trên I-51). Hệ thống động lực mạnh hơn và hình dạng suôn thẳng hơn giúp nó đạt tốc độ di chuyển trên mặt nước cao hơn I-51, thậm chí cao hơn chiếc U-135 của Đức, nhưng với tầm xa hoạt động kém hơn.[1] I-52 có tốc độ thiết kế trên mặt nước 22 hải lý trên giờ (41 km/h; 25 mph) và 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) khi đi ngầm, nhưng khi hoàn tất nó chỉ đạt tối đa 19,5 hải lý trên giờ (36,1 km/h; 22,4 mph) khi chạy thử máy trên mặt biển. Tầm xa hoạt động không cần tiếp nhiên liệu là 10.000 hải lý (19.000 km; 12.000 mi), chỉ đạt một nữa so với I-51.[3]

Hải quân Nhật không xem I-52 là một thiết kế không hoàn toàn thành công, cho dù họ đạt được nhiều tiến bộ kỹ thuật trong thiết kế và chế tạo, cũng như những đặc tính vượt trội so với I-51. Sau khi họ nhận được bảy tàu U-boat của Hải quân Đế quốc Đức như là chiến lợi phẩm sau khi Thế Chiến I kết thúc, Hải quân Nhật bắt đầu xem xét lại các khái niệm thiết kế tàu ngầm của họ.[4] Vì vậy I-52 trở thành chiếc Kaidai II duy nhất được chế tạo, và kế hoạch chế tạo thêm nhiều chiếc Kaidai II khác bị hủy bỏ trước khi ký hợp đồng với các xưởng tàu.

Chế tạo

Đề án S25 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 51 (第五十一号潜水艦 , Dai-go-jyu-ichi-go sensuikan?) tại Xưởng vũ khí Hải quân KureKure có thể vào ngày 14 tháng 2,[5][6] hoặc 2 tháng 4, 1922,[3] theo những nguồn khác nhau, và được hạ thủy vào ngày 12 tháng 6, 1923.[5][6] Nó được đổi tên thành I-52 (伊号第五十二潜水艦, I-go dai-go-jyuni sensuikan?) vào ngày 1 tháng 11, 1924,[5][6] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 20 tháng 5, 1925.[3][5][6]